Tra cứu lịch chiếu và đặt vé siêu nhanh
Là tên tuổi bảo chứng phòng vé tại các rạp chiếu phim suốt từ cuối thập niên 60 đến thập niên 90, Dustin Hoffman được xem như một trong những diễn viên vĩ đại nhất, là tấm gương và nguồn cảm hứng điển hình cho lớp diễn viên trẻ học tập theo.
Shifu
Đang cập nhật
Đã từ lâu Hollywood được xem như là nơi thống trị của nghệ thuật diễn xuất. Từ sự phổ cập lối diễn theo hệ Stanislavski khởi nguồn ở Liên Xô ở thập niên 40 cho đến khi trường kịch nghệ Actor Studio được thành lập, và đỉnh điểm là cuộc cách mạng về diễn xuất khi Marlon Brando xuất hiện với phương pháp Method Acting. Nhiều thế hệ diễn viên huyền thoại đã được sản sinh, ở thời kỳ New Hollywood ngoài những cái tên nổi bật như Robert De Niro, Al Pacino, Jack Nicholson…, thì Dustin Hoffman cũng là một trong những Method Actor nổi tiếng.
Vốn không có lợi thế về ngoại hình bởi vấp dáng nhỏ bé cùng chiếc mũi to so với tổng thể gương mặt, hành trình trở thành diễn viên của Dustin Hoffman là cả quá trình phấn đấu từng ngày vì đam mê. Ông lựa chọn New York làm nơi khởi nghiệp, tại đây Hoffman sống ở căn hộ cùng với Gene Hackman và Robert Duvall, cả ba người về sau đều nổi tiếng và sở hữu tượng vàng Oscar.
Sau khi được nhận vào Actor Studio, ông duy trì cuộc sống bằng cách vừa học vừa làm, thỉnh thoảng tham gia diễn kịch ở sân khấu Broadway. Trong một dịp thử vai cho vở kịch của đạo diễn Mike Nichols, tuy không được chọn những Dustin Hoffman đã kịp để lại ấn tượng tốt với Mike. Không lâu sau đó, vị đạo diễn thực hiện dự án The Graduate (1967), Hoffman lại một lần nữa tham dự casting và giành được vai chính.
Khi bộ phim ra mắt, câu chuyện mang đậm tính thời đại cùng nội dung táo bạo ở thời điểm ấy đã nhận được nhiều đánh giá tích cực từ phía các nhà phê bình. Thông điệp được thể hiện trong phim đến tận thế kỷ 21 này vẫn chưa hề lỗi thời, đặc biệt phần âm nhạc với các ca khúc bất hủ do bộ đôi Simon và Garfunkel thể hiện đã trở thành một phần đặc trưng của nền văn hóa đại chúng Mỹ.
Năm ấy Dustin Hoffman đã 30 tuổi, khi tham gia casting điệu bộ lóng ngóng và gương mặt có phần ngây ngô non nớt của ông vô tình lại tương đồng với tâm lý nhân vật Benjamin Braddock, cậu sinh viên vừa tốt nghiệp đại học có mối quan hệ tình cảm kỳ lạ với người phụ nữ lớn tuổi hơn mình. Thành công của The Graduate đã giúp Hoffman trở thành diễn viên triển vọng gây chú ý, tuy nhiên sau đấy ông chủ yếu tham gia vào nhiều vở kịch tại Broadway.
Tài năng của Dustin Hoffman một lần nữa được chứng minh khi ông hợp tác cùng John Voight trong bộ phim kinh điển Midnight Cowboy (1969). Là phim nhãn "X" duy nhất trong lịch sử điện ảnh đoạt giải Oscar ở hạng mục Phim Hay Nhất, Midnight Cowboy đem lại trải nghiệm cảm xúc từ tỉnh táo đến mơ màng và thậm chí đôi lúc đã lấy nước mắt của người xem khi chứng kiến một tình bạn tuyệt vời, cao đẹp. Thậm chí, có thể đối với nhiều người thì đây còn là một mối tình đồng tính, cặp đôi nhân vật chính cảm thương nhau, che chở nhau bởi vì đồng cảm số phận của nhau.
Để có được vai Ratso Rizzo – một tên lùn xảo trá chuyên lừa gạt, bệnh tật và còn bị thọt chân, Dustin Hoffman đã tự mình “thử vai” theo cách đặc biệt nhất. Phía sản xuất vì lo sợ vẻ ngoài đậm chất “trai tốt” của Hoffman sẽ khó mà thể hiện được tuýp vai phản diện như Ratso, thế là ngày hôm sau khi cả ekip làm phim đang đứng dưới studio, một tên lưu manh ở gần đấy liên tục trêu chọc người đi đường tỏ ý gây hấn với cả đạo diễn và những thành viên viên khác. Khi sự việc bắt đầu căng thẳng thì mọi người mới nhận ra kẻ du côn này chính là Dustin Hoffman, không một ai nhận ra ông và hiển nhiên màn “thể hiện” đó đã ghi điểm cực mạnh giúp ông có được vai diễn mình mong muốn.
Nếu John Voight thể hiện bản thân là diễn viên đầy hứa hẹn khi lấn sân từ truyền hình sang điện ảnh thì Dustin Hoffman đã cho thấy ông là một học viên xuất sắc của lò đào tạo Actor Studio. Với kỹ thuật Method Acting đỉnh cao, ông đã khiến khán giả sững sờ khi lột xác từ câu sinh viên ngoan hiền ngây ngô trong The Graduate sang một tên lưu manh đầu đường xó chợ đầy ngoạn mục.
Đến năm 1979, vai diễn “gà trống nuôi con” trong tác phẩm Kramer vs. Kramer đã đem về cho Dustin Hoffman giải Oscar ở hạng mục Nam Chính Xuất Sắc. Khả năng biến hóa đa dạng cùng diễn xuất đỉnh cao đã khẳng định tên tuổi của ông ở Hollywood.
Sự tận tâm trong diễn xuất của Hoffman mỗi khi góp mặt trong các dự án phim mới đã đến mức cực đoan và từng được ông áp dụng khi đóng chính trong Marathon Man (1976). Trong một phân đoạn cao trào, nhân vật do ông hóa thân đã phải thức trắng ba ngày để có thể sống sót trong thời khắc sinh tử. Chính Dustin Hoffman cũng đã không ngủ suốt ba đêm, đồng thời giảm khẩu phần ăn lạ và không tắm rửa để có được cảm giác hoảng loạn chân thật nhất.
Hoffman chia sẻ, năm ông 21 tuổi đã từng làm việc tại Viện Tâm Thần New York. Tại đây ông có cơ hội tiếp xúc và khám phá về hành vi, cách cư xử của con người khi một bản chất khác của họ được bộc lộ ra, dù là kỳ quái hay khác thường như thế nào thì đây cũng là trải nghiệm tuyệt vời đối với ông. Chính nhờ những kinh nghiệm quý báu ấy, Dustin Hoffman đã ứng dụng nó vào nhân vật Raymond Babbitt – một người tự kỷ nhưng có bộ não của thiên tài trong bộ phim Rain Man (1988).
Ngoài việc tận dụng những gì bản thân tích lũy được trong quá khứ, trong quá trình phác thảo tính cách nhân vật, Hoffman đã dành hai năm để kết bạn với những người bị mắc hội chứng tự kỷ, cùng nhau đi ăn uống và trò chuyện với họ. Chính nhờ tinh thần làm việc chuyên nghiệp ấy, một lần nữa Dustin Hoffman có được tượng vàng của Viện Hàn Lâm cho màn trình diễn của mình.
Là tên tuổi bảo chứng phòng vé tại các rạp chiếu phim suốt từ cuối thập niên 60 đến thập niên 90, Dustin Hoffman được xem như một trong những diễn viên vĩ đại nhất, là tấm gương và nguồn cảm hứng điển hình cho lớp diễn viên trẻ học tập theo.