Tra cứu lịch chiếu và đặt vé siêu nhanh
Hãy tạm bỏ qua những vấn đề liên quan đến đời tư, lối sống kỳ quặc hay những thú chơi “ngông” chẳng giống ai. Dù rằng có thể đã qua thời đỉnh cao (hay thậm chí nếu có cơ hội cũng rất khó để trở lại giai đoạn rực rỡ của sự nghiệp), nhưng cái tên Nicolas Cage vẫn có “sức nặng” tại Hollywood. Là một diễn viên tài năng, luôn tận tâm với nghề, anh xứng đáng nhận được những lời tán dương từ phía khán giả và cả giới chuyên môn.
Suốt gần 4 thập kỷ làm nghề, Nicolas Cage đã ghi dấu ấn với nhiều vai diễn ấn tượng, đồng thời cũng nhiều phen làm giới truyền thông sửng sốt bởi tính nết lập dị của mình.
Cái tôi cao ngạo của Cage có lẽ phần nhiều đến từ sự hiển hanh của dòng họ. Nicolas Cage là cháu trai của đạo diễn huyền thoại Francis Ford Coppola, người đứng sau thành công của loạt phim The Godfather, một trong những tên tuổi hàng đầu của Làn Sóng Mới tại Hollywood vào thập niên 70.
Cái truyền thống nghệ thuật ấy ăn sâu vào máu của Cage. Ông thích thú và đam mê với bộ môn nghệ thuật thứ 7 từ bé. Thay vì “ăn theo” tên tuổi của người bác để có sự tiến thân dễ dàng hơn, Nicolas Cage chọn con đường chính quy và không dựa dẫm vào ai. Ông chăm chỉ tham gia học diễn xuất, luôn cố gắng thể hiện thật tốt mỗi khi có cơ hội nhận vai. Sự đắm chìm vào nghệ thuật diễn đã khiến Cage luôn tự đặt ra yêu cầu cao đối với bản thân, biến ông trở thành kẻ khắc khổ, làm những thứ khác người, một “kẻ điên” thực thụ mà Hollywood từng chứng kiến.
Nói đến sự điên khùng trong diễn xuất, phần đông sẽ nghĩ đến “lão tâm thần” Jack Nicholson. Cách mà Jack diễn luôn cho thấy sự máu lửa, ánh mắt hoang dại như sẵn sàng “ăn tươi” đồng nghiệp trong những cảnh tay đôi. Jack Nicholson tận dụng Method Acting để “hóa điên” và tạo ra bản sắc riêng của ông. Còn Nicolas Cage dùng sự “điên” tồn tại trong huyết quản để biến hóa vào bất kỳ loại vai nào ông được yêu cầu.
Ngay từ những vai diễn đầu tiên ở thập niên 80, Valley Girl (1983) là minh chứng cho thấy tài tử không phải chỉ biết hành động, bắn súng hay giết người. Sự ngọt ngào và lãng mạn của anh chàng Randy đã “đốn tim” không ít phái nữ thời ấy, vai diễn Randy cũng giúp Cage lấy được thiện cảm của các nhà phê bình.
Một năm sau, trong tác phẩm lấy đề tài chiến tranh Việt Nam – Birdy, người xem lại được thấy một Nicolas Cage gần như tràn đầy sự tiêu cực, vết thương tâm lý do cuộc chiến gây ra khiến đôi bạn Birdy và Al đã mất đi sự vô tư, quên luôn cả ước mơ lẫn hoài bão. Để chuẩn bị cho vai Al Columbato thì Cage đã giảm cân và chấp nhận hy sinh 2 chiếc răng cửa, mục đích là để trải nghiệm cảm giác “trông có vẻ” là đau đớn và mất mát.
Sang đến thập niên 90, chương huy hoàng nhất trong sứ mệnh diễn xuất của Nicolas Cage bắt đầu tỏa sáng.
Đầu tiên cần nói đến chính là Leaving Las Vegas (1995), Cage vào vai Ben Sanderson, một biên kịch nghiện rượu, là kẻ đánh mất bản thân, sự nghiệp và cả gia đình bởi thói nghiện ngập của mình. Cuộc đời Ben trải qua từ thất bại, tủi nhục, cho đến hy vọng, ánh sáng rồi lại đến đường cùng.
Nicolas Cage chọn cách quan sát những thói quen, hành vi của người nghiện rượu, đến thăm và tương tác với những bệnh nhân đang điều trị tâm lý vì lạm dụng chất có cồn. Sự đầu tư cho vai diễn đã giúp Cage hóa thân trọn vẹn vào vai Ben một cách xuất sắc. Luôn giữ cho bản thân ở trạng thái nửa say nửa tỉnh suốt thời gian quay, công sức của ông được đền đáp bằng tượng vàng Oscar ở hạng mục Nam Chính Xuất Sắc Nhất.
Năm 1993, Ngô Vũ Sâm bắt đầu sự nghiệp tại Mỹ với bộ phim Hard Target, tác phẩm hành động có sự góp mặt của ngôi sao võ thuật Jean-Claude Van Damme. Tuy thành công về mặt doanh thu nhưng vẫn bị nhận xét rằng chưa thể hiện đúng năng lực của vị đạo diễn xứ Hương Cảng.
Không mất nhiều thời gian, ngay lập tức John Woo đã có câu trả lời bằng siêu phẩm Face/Off (1997). Có sự góp mặt của John Travolta và Nicolas Cage, phim là cuộc đối đầu giữa đặc vụ FBI Sean Archer và tay tội phạm Castor Troy. Sau lần đụng độ nảy lửa, cả hai bị hoán đổi số phận do bị phẫu thuật tráo khuôn mặt.
Được tự do sáng tạo, Ngô Vũ Sâm biến Face/Off thành chiến trường hoành tráng không thua gì The Killer (1989) hay Hard Boiled (1992). Nicolas Cage cùng lúc đảm nhận hai tính cách trước và sau khi bị hoán đổi thân phận vô cùng mượt mà. Phần thể hiện của Cage giúp ông nhận được một đề cử Oscar.
Cameron Poe tiếp tục là một vai diễn hoàn hảo khác của Nicolas Cage trong thập niên 90. Poe là một cựu quân dân phải vào tù vì ẩu đả với đám du côn chọc ghẹo vợ anh. Ngày được phóng thích, anh đi nhờ chuyến bay áp giải lũ tội phạm nguy hiểm. Chuyến hành trình thêm phần chông gai khi Cyrus – một tên tù nhân thông minh đứng ra lãnh đạo cuộc nổi dậy và nhanh chóng chiếm quyền kiểm soát máy bay.
Nếu Passenger 57 (1992) là kiểu phim không tặc với kiểu mẫu “một mình chống khủng bố”, thì Con Air (1997) sẽ đem tới hai người hùng, một trên trời và một dưới đất. John Cusack không còn là chàng thiếu niên tuổi teen với những thước phim tình cảm nhẹ nhàng, ,giờ đây anh là Vince Larkin – đội trưởng cảnh sát Hoa Kỳ, một người nhạy bén và dũng cảm đấu tranh trong việc chứng minh Poe là người tốt. Nicolas Cage tiếp tục biến hóa với tuýp nhân vật như John McClane hay Indiana Jones, vừa gan dạ, vừa tinh quái, kỹ năng đánh đấm bắn súng gần như “bất khả chiến bại”. Con Air công phá phòng vé với doanh thu cực tốt khi ra mắt tại các rạp chiếu phim.
Tất nhiên không thể bỏ qua hình tượng vốn gắn liền và được biết đến nhiều nhất của Nicolas Cage – Ghost Rider. Tạo hình cực ngầu, tay đua mô tô đến từ địa ngục với đầu lâu rực lửa đưa Ghost Rider trở thành nhân vật được hâm mộ trên toàn cầu.
Tuy đã qua thời hoàng kim, những phim mới không còn sức hút như trước. Nhưng Nicolas Cage vẫn là cái tên với tài năng “độc nhất vô nhị” trong lịch sử điện ảnh.